Loạt bài Haeckel có thể kết thúc ở P4 (đó là lí do phụ để 1 năm sau tôi mới
viết phần 5, lí do chính là tôi đãng trí, quên mất mình cần viết phần 5), nhưng
hôm nay chúng ta sẽ mở rộng ra & nói thêm về khe mang/ túi hầu (gill
slits/pharyngeal clefts) và dấu vết tiến hóa trong những sinh vật chưa ra đời,
để hiểu lí do tại sao Darwin viết phôi học “Là lớp bằng chứng mạnh mẽ nhất” cho
học thuyết của ông (dù ngày nay đó là Di truyền – thời Darwin chưa
có).
Lược dịch
từ Gill Slits By Any Other Name
Khe mang/ túi hầu/ cung họng (gill
slits/larynxgeal pouches/pharyngeal archs):
Túi hầu quan
trọng tới nỗi nó là một trong số các đặc điểm nhận diện của ngành động vật có
dây sống (Chordata).
“Chúng được kết hợp lại do ở một số giai đoạn
trong cuộc đời thì chúng đều có dây
sống- dây thần kinh ở lưng và rỗng, các khe hở
thuộc hầu, trụ
trongvà đuôicó bắp thịt mở rộng về phía
sau hậu
môn. Tuy nhiên, một số nhà khoa học cho rằng
những loài động vật có dây sống thực thụ cần phải có khoang túi thuộc hầu hơn là
các khe hở.“ (Theo Wikipedia tiếng
Việt).
Chỗ này,
những NCTH chỉ trích ở 3 điểm chính:
-
Gọi đây là khe mang là sai vì chúng chưa bao
giờ là mang và còn chẳng phải là khe.
“ Không bao giờ trong qúa trình phát triển của
con người mà ta hấp thu oxy từ nước như cá dùng mang cả (phôi người được cung
cấp oxy hoàn toàn qua nhau thai). Thật ra những “khe mang” này còn chẳng phải là
khe” (Mitchell & Mitchell
2007) (2)
-
Tất cả
những điểm tương đồng mà giữa mang của ĐVCXS sống dưới nước & động vật có
màng ối (amniotes – bò sát, chim, thú) đều chỉ là bề ngoài giống mà
thôi.
Cũng theo
Mitchell, vào ngày thứ 28 sau thụ tinh thì tủy sống & não phát triển hơn các
phần còn lại rất nhiều & vì thế làm cho cơ thể cong lại => những nếp gấp
đó chẳng qua giống như phần nọng của một người mập đang cúi đầu => chỉ có
NHÌN giống mang thôi. (3)
“Các nếp gấp hầu còn chẳng bao giờ là mang chưa
hoàn thiện; chúng không bao giờ “giống mang” trừ khi hiểu theo nghĩa thoáng là
chúng hình thành 1 chuỗi các đường song song ở vùng cổ.”
- (Wells 2000,
pp.105-106)(4)
-
Gọi các
túi hầu của động vật có màng ối là “khe mang” khi chúng không có chức năng như
mang là đang “nhồi tiến hóa vào phát
triển”
“Cách duy nhất để nhìn thấy các cấu trúc “giống
mang” ở phôi người là “nhồi” tiến hóa vào phát triển”- The only way to see “gill-like” structures in
human embryos is to read evolution into
development.(Wells 2000,
pp.105-106)
Sau đây
là phân tích:
-
1 + 3.
Khe mang dưới bất kỳ tên gọi nào khác:
Đây là tranh cãi về khái
niệm, lý luận dài nên nếu chỉ muốn biết về bản chất của khe mang bạn có thể bỏ
qua
Ẩn/Hiện nội
dung
-
Khe mang có thực sự là
“khe”?
 |
|
Cung hầu ở phôi cá
mập |
Cung hầu ở phôi
người
Dù ta có gọi các cấu
trúc hầu này là gì, cái chính là chúng có điểm tương đồng nào với mang của
“cá”(*), hay ít nhất là những cấu trúc hầu
trong phôi “cá” mà sẽ trẻ thành
mang không? Lời của những NCTH có thể gây hiểu nhầm rằng
những khe & túi hầu chẳng có gì hơn “ những nếp gấp khúc” hay “những đường
song song” ở lớp nội bì (cái sẽ trở thành da & nhiều thứ khác) của phôi
thai; như những nếp bạn thấy trên ống nước tưới vườn bị gập
cong.
(*)Để
“cá” trong ngoặc kép vì cá không chỉ là “sinh vật có xương sống bơi dưới nước,
có vây & có mang” chỉ là định nghĩa thông thường, “cá” có thể là loài thuộc
Lớp Cá Sụn —the Chondrichthyes(cá mập, cá đuối, chimaeras– cá mập ma), hoặc Lớp Cá vây tia -
the Actinopterygii(chiếm đại đa số cá hiện nay), và
lớp Cá vây thùy - the Sarcopterygii(động vật bốn chân trên cạn tiến hóa
từ nhóm này).
Nhưng hãy tự hỏi
mình câu này: nếu thực sự chúng chỉ là như thế, chỉ như một cái ống xiêu vẹo hay
một cái nọng cằm, sao các nhà sinh học lại khoái chúng tới mức họ coi chúng là
một trong những đặc điểm điển hình của ngành có dây sống? Như thường lệ, câu
chuyện phức tạp hơn nhiều so với những gì NCTH cho bạn biết. Sự thật là, khi
chúng ta xem xét kỹ những chi tiết trong những cấu trúc này, chúng ta không chỉ
tìm thấy sự giống nhau bề ngoài mà là một tập hợp những điểm tương đồng về mặt
giải phẫu giữa những cung mang “cá” & những cấu trúc hầu ở phôi thai động
vật có màng ối.
Mỗi cung hầu (ở trước một
khe/túi hầu) chứa các thành phần thuộc: hệ xương, cơ, thần kinh & tuần hoàn.
Ở tâm của mỗi cung là thành phần sụn, bên hông là một cung động mạch chủ, dây
thần kinh sọ & thành phần cơ.
 |
|
Lát cắt phôi
thai |
Source
bionalogy.com, with modifications.
Túi
& khe
NCTH thích nhai
đi nhai lại rằng với động vật có màng ối, “khe mang” chẳng những không phải là
mang mà cũng chẳng phải khe. Và họ có phần đúng nếu như “khe” nghĩa là một vùng
hở không có gì che chắn bên ngoài vùng cổ với bên trong. Nghĩa là, về lý thuyết
thì họ đúng với sự phát triển bình thường của
thú có vú, tuy nhiên điều này lại không đúng với tất cả động vật có xương sống
không phải cá, và cũng không phải luôn đúng với tất cả thú có vú bao gồm cả con
người.
Với các động vật
có màng ối 'bình thường', bao gồm cả con người chúng ta, thứ duy nhất ngăn chúng
ta có ít nhất một khe hở trong cặp khe hầu đầu tiên là các màng da mỏng, các
màng nhĩ. Không có chúng thì chúng ta sẽ có những ống dẫn mở từ tai ngoài qua
tai giữa & vòi Ot-tat ( Eustachian
tubes) xuống cổ họng.
Với các khe hầu
khác, một vài trong số chúng mở hoàn toàn ở ấu trùng của một số loài lưỡng cư
thở qua mang y như “cá”. Hơn nữa các khe hầu sau tai cũng mở tạm thời ở một số
loài bò sát & chim chỉ để rồi đóng lại trong quá trình phát triển bình
thường của phôi.=> Với một số lưỡng cư chúng chính xác là khe mang, với một
số chim & thú chúng chính xác là khe (mở vào cổ họng).
Và dù đúng là
thú có vú thường không có những 'khe' thực thụ, đôi khi vài cá thể phát triển
không bình thường vẫn có. Đã có nhiều trường hợp có một hoặc cả hai khe hầu số 2
hở ra & vẫn mở cho đến sau khi sinh (dẫn chứng bằng tiếng
Anh: 1, 2, 3). Hiện tượng này (lại tổ, atavism) tương tự như
các trường hợp cá voi sinh ra có chân sau.
Các cung
hầu
Mỗi cung hầu có
một thanh sụn, cung đầu tiên (cung hàm dưới) như đã nói ở trên, phát triển thành
xương hàm của tất cả sinh vật có hàm. Với bò sát & chim, nó bao gồm nhiều
xương của h àm dưới; trong khi ở thú có vú nó phát triển thành một xương hàm
dưới duy nhất & 2 xương của tai trong (xương búa & xương
đe).
Xem thêm bài
tiếng Anh về tiến hóa các xương tai: “Evolution of
mammalian auditory ossicles” (Wikipedia)
Ở “cá”, những
cung khác nâng đỡ mang trong khi ở động vật có màng ối, chúng được biến đổi
thành những cấu trúc khác ở cổ. VD, cung số 2 thành xương móng ở cổ họng &
xương bàn đạp trong tai thú có vú.
Màu sắc
cung: Thứ nhất
= I,
Thứ 2 =
II, Thứ 3 =
III, Thứ 4 =
IV, Thứ 6 =
VI
Cung
động mạch
Chạy song song
với thanh sụn trong các cung hầu là những động mạch chủ. Ở cá & ấu trùng
lưỡng cứ chúng đưa máu đến mang (nơi thải khí CO2 & nạp O2) & ra động
mạch chủ lưng. Ở động vật có màng ối cnũg vậy, máu đi từ tim vòng qua cổ xuống
động mạch chủ lưng, tuy nhiên chúng không phát triển những mao mạch & sợi
nhỏ li ti của mang thực thụ. Thay vào đó nó biến đổi cho các mục đích khác, VD
như ở động vật bốn chân (lưỡng cư, bò sát, chim (vâng, chim được tính là
4 chi :)) ) & thú có vú) cung động mạch chủ
thứ 6 phát triển thành động mạch phổi. Một điểm thú vị là sự sắp xếp
này tình cờ cũng xảy ra với các cung động mạch
ở các loài cả thở bằng mang & phổi (cá phổi, lung fish, dipnoans) (Kardong
2009, p.456), mà dựa trên giải phẫu so sánh & di truyền học (Venkatesh et
al. 2001) (Takezaki et al. 2004) là thuộc nhóm cá vây thùy, Sarcopterygii, mà
như đã nói ở tre6n, là nhóm “cá” gần với động vật 4 chân nhất.
From Eastern Kentucky University BIO
342 Comparative Vertebrate Anatomy site, with
modifications (I colored and labeled the hearts).
Lưu ý vị trí
tương đối của tim so với các cung hầu trong sơ đồ phôi thai động vật có màng ối:
ở ngay dưới & gần cuối các cung động mạch chủ. Ở “cá”, tim giữ nguyên vị trí
này: Ở ngay dưới & gần cuối mang. Ở động vật có màng ối, khi các cấu trúc
hầu phát triển thành hàm & cổ, trái tim bị tách khỏi vùng sẽ là cổ ở sinh
vật trưởng thành ( bạn sẽ thấy tầm quan trọng của điều này khi ta xét tới dây
thần kinh), di chuyển xuống ngực
Dây thần
kinh
Như đã nói, cung
hầu đầu tiên phát triển thành xương hàm của tất cả động vật có xương sống có hàm
(gnathostomes), nơi có dây thần kinh sọ số 5(trigeminal) kết nối não với hàm & các phần
khác của mặt.
Một dây thần
kinh đáng quan tâm khác là dây thnầ kinh số 10 (dây thần kinh phế vị,
X, vagus
nerve). Ở “cá”, nó đi từ đáy sọ và kết nối nhiều cơ quan trong
cơ thể, giữa đường có phân nhánh. Nhánh số 4 sẽ phân bố ở các mang của cung hầu
số 6; đây là một đường đi khá là thẳng từ phần đỉnh của cá tới phần đáy (xem
hình)
Dịch từ chú thích gốc: Thoạt
nhìn các dây thần kinh sọ của ta (góc phải) có vẻ khác với của cá mập. Nhưng
nhìn kỹ thì ta sẽ thấy những điểm tương đồng rõ rệt. Gần như tất cả các dây thần
kinh của chúng ta đều có ở cá mập. Và sự tương đồng không dừng lại ở đó: những
dây thần kinh tương ứng ở người và cá mập truyền tín hiệu cho những bộ phận
tương ứng, và chúng còn đi ra khỏi sọ theo cùng trình tự (góc trên trái,
phải).
Tuy nhiên, như
chúng ta đã thấy, cung hầu số 4 & 6 nhập làm một – sau cung số 5 bị tái hấp
thụ. Cung 4/6 góp phần tạo nên thanh quản (larynx). Vui ở chỗ là khi cái cổ dài
tiến hóa ở động vật có màng ối (cá làm gì có cổ) vá nhánh số 4 của dây thần kinh
số 10 – giờ gọi dây thần kinh thanh quản hồi quy - recurrent laryngeal nerve — bị vướng
vào cung động mạch chủ số 6 và bị lôi xuống ngực, biến cái vốn dĩ là một đường
thẳng dọc theo cung mang số 6 ở “cá” thành một đường cà vòng cà vèo khi dây thần
kinh số 10 đi ra từ đáy não đi xuống tới ngực, chạy vòng quanh động mạch phổi
rồi quay ngược về (hồi quy) lên cổ tới thanh quản.
Điều này dẫn tới
dây thần kinh thanh quản có kích cỡ “khủng bố” như ở hươu cao cổ: sơ đồ cho thấy
rõ một đường đi 5 mét (15 feet) để truyền một tín hiệu cách điểm đích chừng chục
cm! (Vậy bạn đã nghĩ tới trường hợp của khủng long cổ dài chưa? Có thể lên tới
30m!!!)
Nếu
bạn chịu được cảnh máu me & muốn tận mắt thấy RLN, thì chương
trình Inside Nature’s
Giants (Nghĩa đen là Bên Trong Kẻ Khổng Lồ, mình
sao chẳng nghĩ ra được cái tựa gì sáng tạo để “tạm dịch” =.=” ) của Anh có giải
phẫu một con hươu cao cổ (Tập
4), đặc biệt quan tâm tới dây thần kinh thanh quản hồi quy. Có
lẽ vì vậy mà không có gì ngạc nhiên khi hươu cao cổ không phát ra nhiều âm
thanh: Khi tín hiệu yêu cầu tạo ra âm thanh đã đi được từ não xuống cổ & lên
ngược lại xong thì chúng quên mất tiêu tại sao chúng phải tạo âm
rồi!
Tình
trạng “có đường quang không đi lại đâm vào bụi rậm” này có vẻ phi lí đứng từ
quan điểm kĩ thuật - nếu như con hươu được một bàn tay siêu nhiên nào đó thiết
kế ra như những NCTH khẳng định - nhưng lại hoàn toàn dễ hiểu nếu động vật có
màng ối thật ra chỉ là, theo nhà sinh học Neil Shubin, những con “cá” đã được
mông má & chắp vá để đi trên cạn.
Sinh lý
& Di truyền học
Những điểm tương
đồng giữa các cung hầu ở “cá” & động vật có màng ối còn vượt ra ngoài lĩnh
vực giải phẫu: còn có những điểm tương đồng về sinh lý & di
truyền/
VD, dù tất cả
chúng ta đều biết phôi động vật có màng ối không dùng “khe mang” để thở, có ít
nhất một chức năng sinh lý bắt nguồn từ bộ máy hầu được giữ lại từ “cá” sang
động vật có màng ối: điều hòa muối canxi (thành phần chủ yếu của xương ĐVCXS).
“Cá” điều hòa canxi qua mang, trong khi động vật có màng ối làm điều này bằng
cách tiết hoocmon từ tuyến giáp, tuyến này cũng tình cờ bắt nguồn từ túi
hầu số 3 và/hoặc 4 (Okabe & Graham
2004).
Đọc thêm (tiếng
Anh):
-
Deep homologies in
the pharyngeal arches - Những điểm tương đồng sâu sắc ở cung
hầu trên Pharyngula
-
Human parathyroid
probably evolved from gills - Tuyến giáp nhiều khả năng tiến hóa từ
mang trên biochemist.org
Dù NCTH cố tạo
ấn tượng là sinh học hiện đại càng ngày càng phát hiện nhiều sự khác biệt giữa
các sinh vật trong quá trình phát triển, sự thật hoàn toàn ngược lại: sự tương
đồng giữa trong quá trình phát triển của sinh vật thật ra lớn
hơn chúng ta nghĩ rất nhiều.
Ở
cấp độ di truyền, có hai hệ gen quan trong (Hox & Dlx) điều khiển sự phát
triển của vùng hâầ ở tất cả ĐVCXS
Kuratani 2004,
p. 337 (fig. 3)
Một nhóm gen Hox
cố định điuề khiển sự phát triển của các cấu trúc hầu từ đầu tới đuôi (anterior
to posterior) từ ngay sau cung hầu đầu tiên (Hunt et al. 1991) (Prince et al.
1998) (Kuratani 2004). Tương tự, một nhóm gen Dlx được biểu hiện trong quá trình
phát triển theo hướng trước ra sau (ventral/dorsal) (Schilling 2003) (MacDonald
et al., 2010).
Hox genes là tiêu
biểu cho mối quan hệ này. Các genes này có đặc điểm nhận dạng như: đều có chuỗi
180 cặp ba-zơ gọi là homeobox(vì thế có tên Hox), đều là những
protein liên kết ADN có nhiệm vụ “bật/tắt” các genes khác và có cách sắp xếp đặc
thù. Trình tự của chúng trên nhiễm sắc thể trùng với trình tự biểu hiện của
chúng: ở một đầu của cụm gene là Gene Hox được kích hoạt ở đầu sinh vật lần lượt
tới các gene Hox theo trình tự trên cơ thể rồi tới gene Hox được kích hoạt ở
đuôi sinh vật ở đầu còn lại của cụm genes. Những genes này có liên quan đến việc
sắp xếp bố cục cơ thể sinh vật: đầu ở đâu, thân ở đâu... v.v. và được kích hoạt
đầu tiên ở giai đoạn mầm đuôi (phylotypic). Một trong số các lí do của hiện
tượng bảo toàn hình thái ở giai đoạn này là vì những genes này sẽ tương tác với
nhau và với những gene khác để hình thành sơ đồ phát triển sau này. Giữa toàn
thể các genes có sự tương tác với nhau và nhiều genes có thể được sử dụng nhiều
lần, VD như người ta phát hiện có một vài mô kích thích sự hình thành thủy tinh
thể, bao gồm trung bì tim => thay đổi thời gian biệt hóa tim có thể ảnh hưởng
tới sự hình thành mắt! Vì thế là nền tảng cho toàn bộ quá trình phát triển sau
này với quá nhiều quá trình phụ thuộc, hình thái giai đoạn mầm đuôi ít chịu ảnh
hưởng của các biến đổi tiến hóa ở sinh vật trưởng thành => sinh vật có rất
nhiều điểm tương đồng như đã phân tích.
 |
|
Tất cả
genes trong cùng một cột đều tương đồng về thứ tự. Tất cả các động vật đã xét
nghiệm từ trước đến nay đều có bản đồ thông tin vị trí này mã hóa trong bộ gen
của chúng. |
Một kết quả bất ngờ của
sinh học phân tử, không những phôi ĐVCXS mà tất
cả động vật đa bào (từ giun đến côn
trùng đến thú có vú đến sứa)đềudùng genes Hox để định hình cơ thể!
Tuy nhiên có khác biệt: ĐVCXS có 4 bản sao của chuỗi genes Hox trong khi ruồi
giấm Drosophila(động vật đầu tiên được
phát hiện có genes Hox) chỉ có một cụm; chuột và người có 13 genes hox trong mỗi
cụm còn Drosophila có9, và Hydra (thủy tức)
có2. Sự
thống nhất của các genes này trong quá trình phát triển của toàn thể động vật đã
dẫn đến sự hình thành khái niệm zootype - dạng động vật – dạng chung liên kết
tất cả động vật lại chứ không chỉ phôi thai của một ngành duy nhất (ngành
ĐVCXS).
=> Trong khi những người như
Jonathan Wells rêu rao rằng không có sự tương đồng giữa phôi thai của ĐVCXS,
sinh học phân tử thực sự đang khám phá ra những thông
tin mở rộngsự tương đồng ấy, tìm
thấy những đặc điểm chung kết nối tất cả động vật!
***
Nếu muốn đọc thêm về những
bằng chứng không thể chối cãi về những dấu vết vẫn còn trên chính thân thể của
chúng ta do tổ tiên cá trong quá khứ để lại, và để đọc những kiến thức khoa học
thực thụ do một nhà khoa học thực thụ viết, mời các bạn xem qua cuốn “Your Inner
Fish – Con cá trong bạn” của Neil Shubin, mà NXB Trẻ đặt là “Tất cả chúng ta đều
là cá”
Khuyến
mãi tý cổ sinh vật học
***
Tới
thời điểm này hy vọng rằng tôi đã cho các bạn thấy rằng việc những NCTH bảo rằng
các cấu trúc hầu ở phôi động vật có màng ối chỉ là những “nếp gấp”, “rãnh” chỉ
giống mang về hình thức nói trắng ra là LỪA ĐẢO. Có cả một đống tương đồng về
giải phẫu, ít nhất một chu trình sinh lý chung, một sự tương đồng về cơ chế di
truyền chi li mà họ không hề muốn bạn biết. Với trình độ của mình, Wells, (một
nhà sinh học phát triển), Elizabeth Mitchell(bác sĩ sản khoa) & Menton(nhà
giải phẫu học), phải đều hiểu rất rõ những kiến thức về giải phẫu/phôi học đã
nói trên; vậy mà, họ rắp tâm lờ tịt hết những điều đó mà nói với độc giả, những
người không chuyên chỉ có thể hy vọng vào lương tâm của người làm khoa học, rằng
các khe hầu của động vật có màng ối chỉ như những đường song song hay là nọng
cằm của người mập. Cái này là do dốt nát hay dối trá?
Bỏ qua
chuyện đó, thế họ giải thích thế nào về hiện tượng có những điểm tương đồng ở
những phôi thai Đ VCXS rất khác nhau khi trưởng thành? Họ thích đưa ra những so
sánh rất khập khiễng giữa sinh vật sống & những món nhân tạo như xe cộ: lý
do sinh vật A có những điểm tương đồng với sinh vật B không phải do chúng có
cùng tổ tiên mà là do 'cùng mẫu thiết kế' (common design), cũng như xe hơi sản
xuất bởi 2 công ty khác nhau cùng có 4 bánh & pít tông (có một NCTH Việt đặt
một giả thiết táo bạo <đọc lâu rồi tôi chỉ nhớ đại khái> : các siêu rô-bô
sau này đào bới ra chiếc thủy phi cơ sẽ hình dung nó là bước trung gian khi tàu
biến thành máy bay, theo <một cách hiểu méo mó về> thuyết tiến hóa). Vâng,
hãy mạnh dạn so sánh như thế, vì xe cộ & thủy phi cơ cũng biết đẻ con, cũng
chịu ảnh hưởng của chọn lọc tự nhiên & quy luật di truyền <thở dài>.
Thử xét cách so sánh trên là đúng, thì câu hỏi đầu tiên bật ra là: nếu như động
vật có màng ối là xe hơi, thì tại sao thuở đầu đời chúng lại phát triển một dạng
phôi thai nhìn y như tàu ngầm?
Nhiều người nghĩ
rằng “bán cái” tất cả những sự vật hiện tượng trong tự nhiên vào tay một thế lực
bí ẩn là họ đã trả lời được tất cả những câu hỏi nhức đầu. Điều này chẳng những
là lười biếng & hèn nhát về tư duy mà còn đẻ thêm những câu hỏi nhức đầu
hơn: “cùng một thiết kế”=> cùng nhà thiết kế hay cùng nhiều nhà thiết kế (như
nhiều công ty xe hơi)? Họ thiết kế thế nào? Sao lại thiết kế như thế (VD, cái
đường đi 30 m ấy)? Sao họ lại thiết kế trong khoảng thời gian họ đã chọn? Kể tới
sáng mai không hết...
 |
|
So sánh dây thần kinh hầu hồi
quy - recurrent laryngeal nerve (rln) ở người, hươu cao cổ và khủng long cổ dài
(nguồn) |
Mà nếu trong cái sự
lười & nhát cùng cực, người ta bảo nhà thiết kế này toàn năng & đầu óc
con người tầm thường hèn mọn không thể hiểu được (như cái xe không thể hiểu được
kỹ sư thiết kế, ờ mà cái xe nó biết nghĩ chắc nó cũng không coi tự xem thường,
lăng nhục bản thân & đồng loại như là một đức tính tốt như chúng ta) thì vấn
đề càng tệ hơn: vì một “đấng thiết kế” như thế có thể tạo ra bất cứ thứ gì, bằng
mọi cách, với những lí do chỉ “đấng” ấy mới biết. “Đấng” có thể tạo ra một thế
giới toàn những sinh vật phản khoa học như sư điểu (griffin) hay nhân mã
(centaur) mà nếu thích “đấng” có thể tạo ra một thế giới nhìn y như thể nó đã
tiến hóa một cách tự nhiên mà không hề có sự can thiệp siêu nhiên nào (như thế
giới chúng ta đang sống). Không có bất cứ quan sát thực tế nào có thể bác bỏ câu
“Trời sinh nó vậy!”
Hãy so nó với
thuyết tiến hóa. Với thuyết tiến hóa, cho rằng mà các cơ quan được biến đổi từ
những những thứ sẵn có để phục vụ những nhu cầu mới, thì sự tồn tại của những
cấu trúc chắp vá, khôi hài & kém hiệu quả không những dễ hiểu, mà còn là một
dự đoán của học thuyết. Nói cách khác, nếu tiến hóa là đúng thì chúng
ta phải tìm thấy những thứ như thế
này!
Trích dẫn
và tham khảo
Hiện/Ẩn
http://www.talkorigins.org/faqs/wells/haeckel.html#hox_genes